Giới Thiệu Về Tỉnh Đà Nẵng

Đà Nẵng là một thành phố thuộc vùng Nam Trung Bộ, Việt Nam. Đây là trung tâm kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ lớn của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Đà Nẵng hiện là một trong 13 đô thị loại 1 đồng thời là một trong 5thành phố trực thuộc Trung ương ở Việt Nam.

Nguồn gốc từ "Đà Nẵng" là biến dạng của từ Chăm cổ "DAKNAN", nghĩa là vùng nước rộng lớn hay "sông lớn", "cửa sông cái". Năm 1835, với chỉ dụ của vua Minh Mạng, Cửa Hàn (tên gọi Đà Nẵng khi đó) trở thành thương cảng lớn nhất Miền Trung. Sau khi hoàn thành xâm lược Việt Nam vào năm 1889, người Pháp tách Đà Nẵng khỏi Quảng Nam và đổi tên thành Tourane đánh dấu sự ra đời thành phố. Sau Cách mạng tháng tám, thành phố được mang tên nhà yêu nước Thái Phiên . Năm 1950, Pháp trao trả Đà Nẵng cho chính quyền Bảo Đại. Năm 1967, Đà Nẵng được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ấn định là thành phố trực thuộc Trung ương. Sau năm 1975, Đà Nẵng là thành phố trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội khóa IX đã thông qua Nghị quyết tách tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương. Theo đó thành phố Đà Nẵng ngoài phần đất liền còn bao gồmhuyện Hoàng Sa. Tuy nhiên trên thực tế, từ sau sự kiện Hải chiến Hoàng Sa 1974 thì Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã kiểm soát toàn bộ Hoàng Sa và tuyên bố là lãnh thổ của họ. Hiện nay, cả Việt Nam, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa vàTrung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) đều đòi chủ quyền đối với quần đảo này.

Đà Nẵng nằm ở vị trí trung độ của Việt Nam, có vị trí trọng yếu cả về kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh; là đầu mối giao thông quan trọng về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không, cửa ngõ chính ra biển Đông của các tỉnh Miền Trung, Tây Nguyên và các nước tiểu vùng Mê Kông. Đà Nẵng hiện nay có tám quận, huyện với tổng diện tích là 1285,4 km². Theo kết quả điều tra năm 2009 thì dân số thành phố là 887.435 người. Năm 2011, dân số thành phố là 951.700 người. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) trên địa bàn năm 2012 là 46.368,6 tỷ đồng. Trong ba năm liền từ 2008-2010, Đà Nẵng có chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) đứng đầu cả nước. Tuy nhiên năm 2012, PCI của Đà Nẵng tụt xuống thứ 12/63 tỉnh, thành phố. Trong những năm gần đây (2013), Đà Nẵng đã tích cực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường, nâng cao an sinh xã hội và được coi là "thành phố đáng sống" của Việt Nam.

 

Tên gọi

Địa danh Đà Nẵng (chữ Hán: 沱㶞 hoặc 陀㶞) được nói đến sớm nhất trong sách "Ô Châu cận lục" (烏州近錄, in lần đầu năm 1555) của Dương Văn An (楊文安), quyển 5, "Tự từ" (寺祠, nghĩa là "chùa và đền"), "Thần tự" (神祠, đền thờ thần), "Tùng Giang từ" (松江祠, đền Tùng Giang):

Nguyên văn Hán văn:

松江祠

祠在思榮縣思客海門,並在廣南陀㶞海門。

Phiên âm Hán Việt:

Tùng Giang từ

Từ tại Tư Vinh huyện Tư Khách hải môn, tịnh tại Quảng Nam Đà Nẵng hải môn.

Dịch nghĩa:

Đền Tùng Giang

Đền ở cửa biển Tư Khách, huyện Tư Vinh, còn một đền nữa ở của biển Đà Nẵng, Quảng Nam.

"Đà Nẵng" trong "Ô Châu cận lục" không phải là một địa danh hành chính mà chỉ là tên gọi của một cửa biển.

Đà Nẵng là một tên dịch theo kiểu dịch âm kiêm dịch ý một phần, địa danh cần dịch đã được dịch bằng chữ Hán có âm đọc (âm Hán Việt) tương cận, ý nghĩa của chữ Hán dùng để dịch có liên quan nhất định với ý nghĩa của tên gọi được dịch. Phần lớn các ý kiến đều cho rằng tên gọi Đà Nẵng xuất phát từ vị trí nằm ở cửa sông Hàn của thành phố. Đó là một biến dạng của từ Chăm cổ "Da nak", được dịch là "cửa sông lớn".

Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu về Chăm là Inrasara và Sakaya đã có những đề xuất khác. Inrasara (tức Phú Trạm, nhà thơ và nhà nghiên cứu văn hoá Chăm) cho rằng "Đà Nẵng" là biến dạng của từ Chăm cổ ĐaknanĐak có nghĩa là nước, nan hay nưn, tức Ianưng là rộng. Địa danh Đaknan hàm ý chỉ vùng sông nước rộng mênh mông ở cửa sông Hàn. Còn nhà nghiên cứu Sakaya (tức Trương Văn Món) cho rằng "Đà Nẵng" có thể xuất phát từ nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer, Đakdơng - Đà dơng, có nghĩa là con sông.Đanang trong tiếng Chăm và Raglai cổ, cùng thuộc ngôn ngữ Malayo-Polynesia, có nghĩa là "nguồn". "Đà Nẵng" là "sông nguồn"[21].

Bản đồ Annam được vẽ bởi Alexandre de Rhodes có địa danh "Cua han".

Người Trung Quốc gọi Đà Nẵng là Hiện Cảng, vốn được viết bằng chữ Hán là 蜆港, về sau được đổi thành 峴港. Thời xưa tàu thuyền Trung Quốc đi Đà Nẵng thường lấy hòn Sơn Chà làm mốc định vị phương hướng. Hòn Sơn Chà có hình dáng giống con hến nên người Trung Quốc đã gọi nơi đây là "Hiện Cảng" (蜆港), có nghĩa là "bến hến". Về sau một số người không hiểu rõ nguồn gốc của tên gọi này, thấy xung quanh Đà Nẵng có nhiều núi non bao bọc nên đã thay chữ "hiện" 蜆 có nghĩa là "con hến" bằng chữ "hiện" 峴 là từ dùng để chỉ núi nhỏ mà cao.

Một tên gọi khác được đặt cho Đà Nẵng là Cửa Hàn (dịch nghĩa “cửa của sông Hàn”). Theo tác giả Võ Văn Dật thì từ Hàn đã được Việt hóa từ cách đọc theo tiếng Hải Nam của địa danh "Hiện Cảng" 蜆港 là “Hành Càng“ hay “Hàn Càng“.

Giáo sĩ Buzomi - đến Đà Nẵng năm 1615 - đã gọi nơi này là Porte de Kéan. Bản đồ châu Á do Sanson d'Abbeville vẽ năm 1652 ghi Đà Nẵng là Turaon. Giáo sĩ Christoforo Borri - đến Đà Nẵng năm 1618 - khi viết hồi ký về xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn thì đã gọi Đà Nẵng là Touron. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes là người từng lui tới Đà Nẵng nhiều lần và đã gọi nơi này là Turon; trong bản đồ của ông ghi là “Kean” ("Kẻ Hàn"; "kẻ" trong "kẻ chợ").

Cho đến giữa thế kỷ 19, địa danh "Đà Nẵng" vẫn còn là tên gọi của một vùng lãnh thổ gắn liền với một cửa biển, một vũng nước sâu, một "cửa quan" hay một "tấn sở". Các vua triều Nguyễn từ Gia Long đến cả Tự Đức nghiêng về ý nghĩa phòng thủ của nơi này hơn là phát triển Đà Nẵng thành một đô thị sầm uất. Vì vậy mà thời kì này Đà Nẵng được gọi là một "tấn", tức là một vị trí trọng yếu phòng thủ. Cho đến khi Pháp khai hỏa xâm chiếm thì Đà Nẵng vẫn chỉ là một vị trí, một địa bàn chiến lược về quân sự và chưa từng là một địa danh chỉ đơn vị hành chính.

Từ năm 1888 cho đến hết thời Pháp thuộc, Tourane là tên chính thức của Đà Nẵng. Có nhiều cách giải thích khác nhau về nguồn gốc của từ Tourane. Thứ nhất đó là lối nói trại từ chữ Châu Ranh (chỉ ranh giới Việt Nam-Chiêm Thành). Ý kiến thứ hai cho rằng nó bắt nguồn từ một làng có tên là Thạc Gián bị viết lầm là Tu Gián. Ý kiến thứ ba giải thích rằng Tourane chỉ địa danh của một nơi vốn có một cái tháp (tour) trên cửa Hàn.

Trong văn hóa dân gian, Vũng Thùng là một tên thông tục khác để đề cập đến Đà Nẵng.[Ghi chú 1] Các nhà Nho nói chữ thì gọi là Trà UTrà ATrà Sơn hay Đồng Long Loan.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Tourane đổi tên thành Thái Phiên - nhà yêu nước nổi tiếng của đất Quảng Nam đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Duy Tân năm 1916. Tuy nhiên vào ngày 9 tháng 10 năm 1945, Hội đồng Chính phủ ra quyết nghị giữ nguyên tên cũ của các đơn vị hành chính từ cấp kỳ, thành phố, tỉnh, huyện trong cả nước để tiện việc thông tin liên lạc và công văn giấy tờ. Thành phố trở lại tên gọi cũ Đà Nẵng.

 

Địa lý

Vị trí

Thành phố Đà Nẵng nhìn từ đỉnh Sơn Trà
Huyện đảo Hoàng Sa

Tọa độ phần đất liền của thành phố Đà Nẵng từ 15°15' đến 16°40' vĩ độ bắc và từ 107°17' đến 108°20' kinh độ đông. Phía bắc giáp tỉnhThừa Thiên-Huế, phía tây và nam giáp tỉnh Quảng Nam, phía đông giáp biển Đông.

Thành phố nằm ở trung độ của Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội 764 km về phía bắc, cách thành phố Hồ Chí Minh 964 km về phía nam, cách kinh đô thời cận đại của Việt Nam là thành phố Huế 108 km về hướng tây bắc. Đà Nẵng còn là trung điểm của các di sản thế giới: Cố đô Huế, Phố cổ Hội An và Thánh địa Mỹ Sơn. Thành phố Đà Nẵng nằm trên trục giao thông Bắc - Nam về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không, là một trong những cửa ngõ quan trọng ra biển của Tây Nguyên và các nước Lào, đông bắc Campuchia, Thái Lan và Myanma. Khoảng cách từ Đà Nẵng đến các trung tâm kinh tế chính của khu vực Đông Nam Á như Bangkok (Thái Lan), Kuala Lumpur (Malaysia), Singapore, Manila (Philipines) đều nằm trong khoảng 1.000–2.000 km. Bốn điểm cực trên đất liền của thành phố Đà Nẵng là:

  • Cực bắc và cực tây là phường Hòa Hiệp Bắc, quận Liên Chiểu và xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang.
  • Cực nam là xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang.
  • Cực đông là phường Thọ Quang, quận Sơn Trà.

Ngoài phần đất liền, vùng biển của thành phố gồm quần đảo Hoàng Sa (khu vực đang tranh chấp với Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc) nằm ở 15°45’ đến 17°15’ vĩ độ bắc, 111° đến 113° kinh độ đông, ngang bờ biển các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam và một phần tỉnh Quảng Ngãi; cách đảo Lý Sơn (thuộc tỉnh Quảng Ngãi) khoảng 120 hải lý về phía nam.Khu vực quần đảo nằm trên vùng biển rộng khoảng 30.000 km². Tổng diện tích phần nổi của quần đảo khoảng 10 km², trong đó đảo Phú Lâm chiếm diện tích lớn nhất (nguồn Việt Nam: khoảng 1,5 km², nguồn Trung Quốc: 2,1 km²). Hoàng Sa án ngự đường hàng hải quốc tế huyết mạch từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương. Vùng biển này có tiềm năng lớn về khoáng sản, hải sản, có thuận lợi để phát triển kinh tế nhưng quan trọng hơn đây là vị trí quân sự chiến lược, khống chế đường giao thông trên biển và trên không trong khu vực phía bắc biển Đông. Bốn điểm cực của quần đảo Hoàng Sa là:

  • Cực bắc tại bãi đá Bắc
  • Cực nam tại bãi ngầm Ốc Tai Voi
  • Cực đông tại bãi Gò Nổi
  • Cực tây tại đảo Tri Tôn

 

Địa chất, địa hình

Cảnh quan vùng núi Bà Nà

Về mặt địa chất, Đà Nẵng nằm ở rìa của miền uốn nếp Paleozoi được biết đến với tên gọi Đới tạo núi Trường Sơn - nơi mà những biến dạng chính đã xảy ra trong kỷ Than đá sớm. Cấu trúc địa chất khu vực Đà Nẵng gồm có năm đơn vị địa tầng chủ yếu, lần lượt từ dưới lên là: hệ tầng A Vương, hệ tầng Long Đại, hệ tầng Tân Lâm, hệ tầng Ngũ Hành Sơn và trầm tích Đệ tứ. Trong đó các hệ tầng A Vương, Long Đại, Tân Lâm có thành phần thạch học chủ yếu là đá phiến và cát kết. Hệ tầng Ngũ Hành Sơn chủ yếu là đá vôi hoa hóa màu xám trắng. Trầm tích Đệ tứ bao gồm các thành tạo sông, sông - biển, biển, biển - đầm lầy có tuổi từ Pleistocen sớm đến Holocen muộn, chủ yếu là cát, cuội, sỏi, cát pha, sét pha,...Vỏ Trái Đất tại lãnh thổ thành phố Đà Nẵng bị nhiều hệ thống đứt gãy theo phương gần á vĩ tuyến và phương kinh tuyến chia cắt, làm giảm tính liên tục của đá, giảm độ bền của chúng, nhất là tạo nên các đới nứt nẻ tăng cao độ chứa nước. Đây là hiểm hoạ trong khi xây dựng các công trình.

Địa hình thành phố Đà Nẵng vừa có đồng bằng duyên hải, vừa có đồi núi. Vùng núi cao và dốc tập trung ở phía tây và tây bắc, từ đây có nhiều dãy núi chạy dài ra biển, một số đồi thấp xen kẽ vùng đồng bằng ven biển hẹp. Địa hình đồi núi chiếm diện tích lớn, độ cao khoảng từ 700 - 1.500 m, độ dốc lớn (>40o), là nơi tập trung nhiều rừng đầu nguồn và có ý nghĩa bảo vệ môi trường sinh thái của thành phố. Đồng bằng ven biển là vùng đất thấp chịu ảnh hưởng của biển bị nhiễm mặn, là vùng tập trung nhiều cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, quân sự, đất ở và các khu chức năng của thành phố. Ở khu vực cửa sông Hàn và sông Cu Đê địa hình đáy biển bị phức tạp và tạo ra một số bãi cạn, trũng ngầm (lòng sông).Khu vực cửa vịnh ra ngoài khơi địa hình nhìn chung là nghiêng thoải về phía đông bắc. Khoảng cách các đường đẳng sâu khá đều đặn .

Quần đảo Hoàng Sa gồm hai cụm đảo chính là cụm Lưỡi Liềm ở phía tây và cụm An Vĩnh ở phía đông. Cụm Lưỡi Liềm nằm về phía tây, có hình cánh cung hay lưỡi liềm, bao gồm các đảo là Hoàng Sa, Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Ảnh, Quang Hòa, Bạch Quy, Tri Tôn cùng các mỏm đá, bãi ngầm. Cụm đảo An Vĩnh bao gồm các đảo tương đối lớn của quần đảo Hoàng Sa và cũng là các đảo san hô lớn nhất của biển Đông như đảo Phú Lâm, đảo Cây, đảo Linh Côn, đảo Trung, đảo Bắc, đảo Nam và cồn cát Tây. Nhiều thực thể trong quần đảo biểu hiện dạng vành khuyên cổ của các rạn san hô vòng Thái Bình Dương, vốn dĩ là kết quả phát triển của san hô cộng với sự lún chìm của vỏ Trái Đất. Hình thái địa hình các đảo tương đối đơn giản nhưng mang đậm bản sắc của địa hình ám tiêu san hô vùng nhiệt đới có cấu tạo ba phần khác nhau đó là phần đảo nổi, hành lang bãi triều (thềm san hô) bao quanh đảo và sườn bờ ngầm dốc đứng. Đa số các đảo nổi có độ cao dưới 10 m.

 

Khí hậu

Đà Nẵng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình, nhiệt độ cao và ít biến động. Khí hậu Đà Nẵng là nơi chuyển tiếp đan xen giữa khí hậu cận nhiệt đới ở miền Bắc và nhiệt đới xavan miền Nam, với tính trội là khí hậu nhiệt đới ở phía nam. Mỗi năm có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa kéo dài từ tháng 8 đến tháng 12 và mùa khô từ tháng 1 đến tháng 7, thỉnh thoảng có những đợt rét mùa đông nhưng không đậm và không kéo dài.

Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 25,9 °C; cao nhất vào các tháng 6, 7, 8, trung bình 28-30 °C; thấp nhất vào các tháng 12, 1, 2, trung bình 18-23 °C. Riêng vùng rừng núi Bà Nà ở độ cao gần 1.500 m, nhiệt độ trung bình khoảng 20 °C. Độ ẩm không khí trung bình là 83,4%. Lượng mưa trung bình hàng năm là 2.504,57 mm; lượng mưa cao nhất vào các tháng 10, 11, trung bình 550-1.000 mm/tháng; thấp nhất vào các tháng 1, 2, 3, 4, trung bình 23–40 mm/tháng. Số giờ nắng bình quân trong năm là 2.156,2 giờ; nhiều nhất là vào tháng 5, 6, trung bình từ 234 đến 277 giờ/tháng; ít nhất là vào tháng 11, 12, trung bình từ 69 đến 165 giờ/tháng. Mỗi năm, Đà Nẵng chịu ảnh hưởng trực tiếp từ một đến hai cơn bão hoặc áp thấp nhiệt đới. Năm 2006, Đà Nẵng chịu ảnh hưởng của bão Xangsane - cơn bão mạnh nhất đổ bộ vào Đà Nẵng trong 100 năm qua, gây thiệt hại nặng nề cho thành phố.

Thời gian nắng ở quần đảo Hoàng Sa dao động trong khoảng từ 2.400 đến 2.600 giờ/năm. Nhiệt độ không khí tối thấp trung bình ở vùng biển quần đảo là 22°-24°C trong tháng 1, tăng dần và đạt cực đại trung bình 28.5°-29°C trong tháng 6 và tháng 7. Chế độ gió vùng quần đảo Hoàng Sa phức tạp và thể hiện ảnh hưởng của địa hình lục địa Việt Nam và Trung Quốc. Gió tây nam chiếm ưu thế vào mùa hè; gió đông bắc chiếm ưu thế trong mùa đông. Lượng mưa trung bình năm ở Hoàng Sa là khoảng 1.200-1.600 mm. Độ ẩm tương đối trung bình 80-85% và hầu như không biến động nhiều theo mùa.

Nuvola apps kweather.svg Khí hậu Đà Nẵng
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Trung bình tối cao °C (°F) 24.8 (77) 26.1 (79) 28.7 (84) 31.0 (88) 33.4 (92) 33.9 (93) 34.3 (94) 33.9 (93) 31.5 (89) 29.6 (85) 27.0 (81) 24.9 (77) 25,9 (79)
Trung bình tối thấp °C (°F) 18.5 (65) 19.8 (68) 21.5 (71) 23.3 (74) 24.9 (77) 25.5 (78) 25.3 (78) 25.5 (78) 24.1 (75) 23.2 (74) 21.6 (71) 19.3 (67) 20,8 (69)
Lượng mưa mm (inch) 96.2 (3.8) 33.0 (1.3) 22.4 (0.9) 26.9 (1.1) 62.6 (2.5) 87.1 (3.4) 85.6 (3.4) 103.0 (4.1) 349.7 (13.8) 612.8 (24.1) 366.2 (14.4) 199.0 (7.8) 2.504,5 (98,6)

Nguồn: Tổ chức Khí tượng Thế giới (Liên Hiệp Quốc)  14 tháng 5 năm 2013.

 

Thủy văn

Một bờ biển tại thành phố Đà Nẵng

Hệ thống sông ngòi ngắn và dốc, bắt nguồn từ phía tây, tây bắc và tỉnh Quảng Nam. Có hai sông chính là sông Hàn với chiều dài khoảng 204 km, tổng diện tích lưu vực khoảng 5.180 km² và sông Cu Đê với chiều dài khoảng 38 km, lưu vực khoảng 426 km². Ngoài ra, trên địa bàn thành phố còn có các sông khác: sông Yên, sông Chu Bái, sông Vĩnh Điện, sông Túy Loan, sông Phú Lộc,...Các sông đều có hai mùa: mùa cạn từ tháng 1 đến tháng 8 và mùa lũ từ tháng 9 đến tháng 12.Thành phố còn có hơn 546 ha mặt nước có khả năng nuôi trồng thủy sản.

Nước ngầm của vùng Đà Nẵng khá đa dạng, các khu vực có triển vọng khai thác là nguồn nước ngầm tệp đá vôi Hoà Hải – Hoà Quý ở chiều sâu tầng chứa nước 50–60 m; khu Khánh Hoà có nguồn nước ở độ sâu 30–90 m; các khu khác đang được thăm dò. Đầu năm 2013, do các công trình thủy điện đầu nguồn tích nước không xả nước về vùng đồng bằng, vùng xuôi khiến cho người dân Đà Nẵng phải đối mặt với việc thiếu nước sinh hoạt và nguồn nước tưới tiêu cho cây trồng. Bên cạnh đó thành phố cũng phải đối phó với tình trạng nguồn nước bị nhiễm mặt hàng năm.

Vùng biển Đà Nẵng có chế độ thủy triều thuộc chế độ bán nhật triều không đều. Hầu hết các ngày trong tháng đều có hai lần nước lên và hai lần nước xuống, độ lớn triều tại Đà Nẵng khoảng trên dưới 1 m. Dòng chảy ở vùng biển gần bờ có hướng chủ đạo là hướng đông nam với tốc độ trung bình khoảng 20–25 cm/s. Khu vực gần bờ có tốc độ lớn hơn so với khu vực ngoài khơi một chút.

 

Môi trường

Quá trình mở rộng không gian đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng, khai thác tài nguyên đất và sự phát triển nhanh của ngành công nghiệp, du lịch của địa phương đã gây nên những tác động đến môi trường không khí, môi trường sinh thái và đa dạng sinh học của thành phố. Năm 2010, tổng lượng nước thải công nghiệp khoảng 6.835 m³/ngày. Các dự án lấn biển như Khu đô thị Đa Phước, Khu dịch vụ thủy sản Thọ Quang, Khu dịch vụ hậu cần Cảng Đà Nẵng,...có nguy cơ tác độ đến môi trường, hệ sinh thái vùng bờ Đà Nẵng. Kết quả điều tra năm 2006 cho thấy diện tích san hô khu vực ven biển Đà Nẵng không có khả năng phục hồi là 81%. Năm 2012, Khu dịch vụ thủy sản Thọ Quang là điểm nóng nhất về ô nhiễm môi trường trên địa bàn thành phố. Chất lượng nước ở các con sông cũng có vấn đề, đặc biệt là vùng hạ lưu, các sông đều bị ô nhiễm bởi một lượng khá lớn coliform, BOD5, COD và chất khác. Trong nội ô thành phố Đà Nẵng, lượng bụi, lưu huỳnh điôxit, tiếng ồn, hóa chất độc hại đều vượt tiêu chuẩn cho phép.

Trước tình trạng ô nhiễm môi trường, vào tháng 10 năm 2008, thành phố Đà Nẵng đã phê duyệt đề án “Xây dựng Đà Nẵng - Thành phố môi trường”. Đề án được xây dựng trên tiêu chí đến năm 2020, các yêu cầu về chất lượng môi trường đất, chất lượng môi trường nước, chất lượng môi trường không khí trên toàn thành phố được đảm bảo, tạo sự an toàn về sức khoẻ và môi trường cho người dân, các nhà đầu tư, cho du khách trong và ngoài nước khi đến với Đà Nẵng.

 

Lịch sử

Thời Sa Huỳnh và Chăm Pa

Đà Nẵng nằm trong vùng đất xứ Quảng, nơi các cư dân cổ thuộc văn hóa Sa Huỳnh đã định cư từ hàng nghìn năm trước. Đồng bằng xứ Quảng đã dựng lên một nền văn minh lúa nước và dâu tằm nổi tiếng. Người Sa Huỳnh không chỉ là những cư dân nông nghiệp mà còn đi biển và có hoạt động giao thương bằng đường biển khá phát triển. Tại di tích Vườn Đình Khuê Bắc (phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn), các nhà khảo cổ học đã phát hiện và khai quật được những vết tích liên quan đến nơi ở và nơi chôn cất của cư dân thuộc thời kỳ Tiền Sa Huỳnh, cách đây khoảng 3.000 năm và một số hiện vật ở những lớp đất phía trên thuộc thời kỳ Chăm Pa sớm, cách đây gần 2.000 năm.

Khi nhà nước Chăm Pa ra đời, vùng đất Đà Nẵng thuộc về tiểu quốc Amaravati. Tại tiểu quốc này đã có ít nhất hai vương triều là Lâm Ấp và Indrapura tồn tại. Những dấu tích của thời kỳ Chăm Pa còn biểu hiện khá đậm nét qua các di tích từ miếu thờ tín ngưỡng ở Đình Dương Lâm (Xã Hòa Phong) chỉ thờ ngẫu tượng Linga - Yony quy mô nhỏ bé đến các phế tích có quy mô lớn như lũy đất Thành Lồi, phế tích của các tháp Chăm như tháp Quá Giáng, tháp Xuân Dương và tháp Phong Lệ. Trên địa bàn chùa ở Ngũ Hành Sơn còn lưu giữ một số hiện vật Chăm Pa như bệ thờ, mảnh bệ thờ, mảnh góc bệ thờ được khắc tạc với các đề tài như tượng, voi, sư tử, Drappla, hoa dây uốn xoắn,... thuộc phong cách nghệ thuật Đồng Dương thế kỷ IX. Ngoài ra còn có các giếng cổ Chăm Pa phân bố rải rác ở nhiều địa phương. Cuộc khai quật di tích Chăm ở làng Phong Lệ (quận Cẩm Lệ) năm 2012 với việc phát hiện nền tháp chăm có kích thước lớn nhất từ trước đến nay đã đưa đến giả thuyết: "rất có thể hơn 1.000 năm trước, vùng đất này là một trung tâm kinh tế, đô thị sầm uất hoặc là nơi giao thương qua lại".

 

Thời Đại Việt

Trong nửa sau của thế kỷ thứ 10, các vua của vương triều Indrapura đã xung đột với Đại Việt. Năm 982, ba sứ thần mà Lê Hoàn (người sáng lập ra nhà Tiền Lê) gửi đến Chăm Pa đã bị bắt giữ. Lê Hoàn đã quyết định mở một cuộc tấn công vào vương quốc Indrapura và giết chết vua Chăm Parameshvaravarman I. Như một kết cục của sự thất bại, người Chăm cuối cùng đã bỏ rơi Indrapura vào khoảng năm 1000.

Vào năm 1306, thông qua cuộc hôn nhân của Vua Jayasimhavarman III (Chế Mân) với Công chúa Huyền Trân bằng việc nhượng hai châu Ô, Lý cho nhà Trần thì các làng xóm của người Việt bắt đầu được hình thành. Tháng Giêng năm Đinh Mùi (1307), Vua Trần Anh Tông sai đổi tên châu Ô và châu Lý thành châu Thuận và châu Hoá. Đà Nẵng từ đây là phần đất thuộc châu Hóa, và từ sau 1446 thì Đà Nẵng thuộc địa phận của huyện Điện Bàn, phủ Triệu Phong, thừa tuyên Thuận Hóa. Sau khi sáp nhập vào Đại Việt, vùng Đà Nẵng trở vào vẫn là miền biên viễn, luôn bị quấy nhiễu và cướp phá. Vào năm 1470, Lê Thánh Tông đánh bại quân Chiêm Thành và mở rộng biên giới Đại Việt đến mũi Nạy (giữa Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay) thì vùng đất này mới được bình ổn và bắt đầu có những cuộc khai phá mở mang. Những cư dân Việt đến sinh sống ở vùng này đã tiếp nhận và cải biến những yếu tố của văn hóa Chăm Pa để hòa nhập vào văn hóa Việt.

Bức họa Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ của Chaya Shinroku, có ý kiến cho rằng hình ảnh cửa biển trong hình chính là cửa Đà Nẵng[5].

Thời các Chúa Nguyễn, vùng đất này đã được khai phá và trở nên trù phú thịnh vượng; các thương nhân cùng tàu thuyền nước ngoài thường xuyên ra vào mua bán, trao đổi hàng hóa. Giữa thế kỷ 16, khi Hội An là trung tâm buôn bán sầm uất ở phía nam thì Đà Nẵng nằm ở vị trí tiền cảng với vai trò trung chuyển hàng hóa, tu sửa tàu thuyền. Đầu thế kỷ 18, vị trí tiền cảng của Đà Nẵng dần dần trở thành thương cảng thay thế cho Hội An, nhất là khi kỹ thuật đóng tàu ở châu Âu phát triển; những loại tàu thuyền lớn, đáy sâu có thể ra vào vịnh Đà Nẵng dễ dàng.

Thời kỳ các Chúa Nguyễn cũng đánh dấu sự thành lập của Hải đội Hoàng Sa với nhiệm vụ ra đóng ở quần đảo Hoàng Sa, mỗi năm 8 tháng để khai thác các nguồn lợi: đánh cá, thâu lượm những tài nguyên của đảo và những hoá vật do lấy được từ những tàu đắm đem về nộp cho triều đình. Quá trình hoạt động của Hải đội Hoàng Sa cũng là quá trình xác lập và thực thi chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa (và Trường Sa) kéo dài từ đầu thế kỷ XVII.

Đà Nẵng trong thời Trịnh-Nguyễn phân tranh và thời Tây Sơn trở thành vùng tranh chấp dữ dội và đã chứng kiến những trận đánh quyết liệt của quan quân nhà Nguyễn trong cuộc tấn công vào cửa Đà Nẵng và Đại Chiêm. Năm 1797, quân Nguyễn Ánh đem đại binh tiến đánh Đà Nẵng.

 

Thời nhà Nguyễn

Cửa biển Đà Nẵng và quần đảo Hoàng Sa thể hiện trên "Đại Nam nhất thống toàn đồ" (1834)

Với vị trí chiến lược quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến sự an nguy của kinh đô Phú Xuân, Đà Nẵng là một quân cảng và một thương cảng quan trọng bậc nhất của triều Nguyễn. Ngay sau khi thành lập, vương triều Nguyễn đã chú trọng xây dựng tại đây một hệ thống quản lý và phòng thủ cảng biển đặc biệt. Năm 1813, triều đình sai Nguyễn Văn Thành lập pháo đài Điện Hải và đồn An Hải nằm hai bên tả hữu sông Hàn để quan sát ngoài biển và phòng thủ Đà Nẵng. Trung tâm hành chính của tỉnh Quảng Nam được chuyển từ Dinh Chiêm (gần Hội An) ra đại đồn La Qua (Vĩnh Điện). Đặc biệt, Gia Long quy định việc đón tiếp các đoàn sứ ngoại quốc đến quan hệ với vương triều nhất định phải vào cửa biển Đà Nẵng mà không được cập bến tại bất kỳ một cửa biển nào khác.

Năm 1835, khi Vua Minh Mạng có dụ: "...tàu Tây đậu tại cửa Hàn, còn các cửa biển khác không được vào, phép nước rất nghiêm, chẳng nên làm trái... Từ nay về sau, người Tàu phải đi tàu buôn nước Tàu, mới cho vào cửa biển, người Tây phải đi tàu nước Tây vào cửa Hàn thông thương, không được ghé vào các cửa biển khác..."thì Đà Nẵng trở thành hải cảng chính thức và duy nhất thực thi chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn với các nước đến quan hệ qua đường biển. Vua Thiệu Trị cũng đặc biệt quan tâm đến việc an ninh cảng biển tại Đà Nẵng và đưa ra những quy định chặt chẽ quản lý người phương Tây đến buôn bán tại đây.

Nhà Nguyễn tiếp tục thực thi nhiều chính sách khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Năm 1816, Vua Gia Long chính thức chiếm hữu đảo, ra lệnh cắm cờ trên đảo và đo thuỷ trình.Năm 1835, Vua Minh Mạng cho xây miếu, đặt bia đá, đóng cọc, và trồng cây. Đội Hoàng Sa được trao nhiều nhiệm vụ: khai thác, tuần tiễu, thu thuế dân trên đảo và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ quần đảo. Hải đội này tiếp tục hoạt động cho đến khi người Pháp vào Đông Dương.

Ngay từ giai đoạn 1843-1857 thì mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Pháp đã trở nên nóng bỏng.Tháng 3 năm 1847, Augustin de Lapierre chỉ huy tàu Gloire cập bến Đà Nẵng, trình thư cho nhà Nguyễn nhưng bị từ chối. Sang ngày 15 tháng 4 năm 1847, tàu Pháp đụng độ với bốn tàu của triều đình Huế và đánh tan quân triều đình chỉ sau hai giờ giao tranh. Giữa tháng 9 năm 1856, tàu Catinat do Lelieur chỉ huy ghé Đà Nẵng, trình quốc thư nhưng tiếp tục bị nhà Nguyễn từ chối. Ngày 28 tháng 9, phía Pháp cho tàu Catinat nã súng vào các pháo đài bảo vệ Đà Nẵng và cho quân đổ bộ đóng đinh vô hiệu hóa nhiều khẩu thần công của Việt Nam. Tính chung suốt từ 1843 đến 1857, Pháp đã sáu lần gửi chiến hạm đến Đà Nẵng.

 

Thời Pháp thuộc

Quân Pháp tấn công Đà Nẵng, 1858.

Năm 1858, cuộc xâm lược của Pháp tại Việt Nam khởi đầu bằng cuộc tấn công vào Đà Nẵng. Ngày 25 tháng 8 năm 1883, triều đình Huế buộc phải ký với Pháp Hiệp ước Harmand. Theo điều 6 và 7 của Hiệp ước này, ngoài việc yêu cầu mở cửa Đà Nẵng để thông thương còn quy định rằng Pháp sẽ được phép lập các khu nhượng địa ở đây.

Ngày 17 tháng 8 năm 1888, Tổng thống Pháp kí sắc lệnh thành lập ba thành phố ở Việt Nam là Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng.Ngày 3 tháng 10 năm 1888, Vua Đồng Khánh buộc phải ký một đạo dụ gồm 3 khoản quy định rõ "...Đà Nẵng được chính phủ Đại Nam kiến lập thành nhượng địa Pháp và nhượng trọn quyền cho chính phủ Pháp, và chính phủ Đại Nam từ bỏ mọi quyền hành trên lãnh thổ đó". Theo phụ đính của đạo dụ này, năm xã của huyện Hòa Vang gồm Hải Châu, Phước Ninh, Thạch Thang, Nam Dương và Nại Hiên Tây nằm bên tả ngạn sông Hàn được cắt giao cho Pháp để lập "nhượng địa" Tourane với diện tích 10.000 ha. Ngày 24 tháng 5 năm 1889, Toàn quyền Đông Dương Étienne Richaud ra nghị định thành lập thành phố Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam. Đà Nẵng là thành phố loại 2, tương tự như thành phố Chợ Lớn thành lập trước đó. Đơn vị hành chính này chịu sự cai quản trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương thay vì triều đình Huế. Đứng đầu thành phố là một viên Đốc lý do Khâm sứ đề nghị và Toàn quyền bổ nhiệm. Ngày 15 tháng 1 năm 1901, dưới sức ép của Pháp, Vua Thành Thái buộc phải ký một đạo dụ nới rộng nhượng địa Đà Nẵng thêm 14 xã, cụ thể là thêm 8 xã thuộc huyện Hòa Vang bên tả ngạn sông Hàn và 6 xã thuộc huyện Diên Phước bên hữu ngạn sông Hàn. Ngày 19 tháng 9 năm 1905, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định tách Đà Nẵng khỏi tỉnh Quảng Nam để trở thành một đơn vị hành chính độc lập gồm 19 xã. Như vậy vào đầu thế kỷ 20, thành phố Tourane/Đà Nẵng đã vươn về phía tây và tây bắc, còn phía đông thì đã vượt sang hữu ngạn sông Hàn chiếm trọn bán đảo Sơn Trà.

Đầu thế kỷ 20, Tourane được Pháp xây dựng trở thành một đô thị theo kiểu Tây phương. Cơ sở hạ tầng xã hội, kỹ thuật sản xuất được đầu tư. Sản xuất nông nghiệp, tiểu thủcông nghiệp, chế biến hàng xuất khẩu, sửa chữa tàu thuyền, kinh doanh dịch vụ được hình thành và phát triển; cùng với Hải Phòng và Sài Gòn, Tourane trở thành trung tâm thương mại quan trọng. Cảng Đà Nẵng đã tương đối hoàn chỉnh và đi vào hoạt động từ giai đoạn 1933-1935. Sân bay dân dụng cũng được nhà cầm quyền sớm xây dựng vào năm 1926. Hầu hết các công ty lớn nhất hoạt động ở Đông Dương đều hiện diện ở Đà Nẵng. Dân số thành phố tăng lên nhanh chóng; năm 1936, Đà Nẵng có 25.000 người; năm 1945 có khoảng 30.000 người.

Trong thời gian này, người Pháp vẫn tiếp tục quản lý quần đảo Hoàng Sa. Ngày 8 tháng 3 năm 1925, Toàn quyền Đông Dương tuyên bố quần đảo Hoàng Sa (và quần đảo Trường Sa) là lãnh thổ của Pháp. Từ năm 1925, Viện Hải dương học và Nghề cá Nha Trang đã thực hiện các cuộc khảo sát ở Hoàng Sa. Năm 1938, Pháp bắt đầu phái các đơn vị bảo an tới các đảo và tiến hành dựng bia chủ quyền, hải đăng, trạm vô tuyến, trạm khí tượng trên đảo Hoàng Sa cùng một trạm khí tượng nữa trên đảo Phú Lâm. Ngày 15 tháng 6 năm 1938, Toàn quyền Đông Dương Jules Brévié thành lập đại lý hành chính ở quần đảo Hoàng Sa. Tháng 6 năm 1938, một đơn vị lính bảo an Việt Nam được phái ra đồn trú Hoàng Sa.

Thời Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa

Năm 1950, Pháp trao trả Đà Nẵng cho chính phủ Quốc gia Việt Nam dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại. Từ tháng 10 năm 1955, chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành phân chia lại địa giới hành chính. Lúc này, Đà Nẵng trực thuộc tỉnh Quảng Nam. Đến ngày 31 tháng 7 năm 1962, tỉnh Quảng Nam được tách thành hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín. Đà Nẵng trực thuộc trung ương. Vào những năm 1954-1955, dân số Đà Nẵng có khoảng hơn 50.000 người.

Trong khi đó cuộc Chiến tranh Việt Nam ngày càng gia tăng. Tháng 3 năm 1965 các đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và thiết lập ở đây một căn cứ quân sự hỗn hợp lớn. Sân bay Đà Nẵng được coi là một trong những sân bay "tấp nập" nhất trong chiến tranh. Năm 1967, Đà Nẵng được chính quyền Việt Nam Cộng hòa ấn định trực thuộc trung ương và xác định mục tiêu xây dựng Đà Nẵng thành trung tâm chính trị, quân sự, văn hóa cho vùng I và II chiến thuật. Mỹ cho xây dựng ở Đà Nẵng các căn cứ quân sự và kết cấu hạ tầng phục vụ cho mục đích quân sự như sân bay, cảng, kho bãi, cơ sở thông tin liên lạc...

Năm 1973, khi quân Mỹ rút khỏi Việt Nam, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã cho phân chia lại địa giới hành chính Đà Nẵng, giữ nguyên 3 quận như cũ, chỉ sáp nhập 28 khu phố bên dưới cấp quận thành 19 phường. Thị xã Đà Nẵng được đặt dưới quyền điều hành của Hội đồng thị xã gồm 12 ủy viên và do một thị trưởng đứng đầu. Do chính sách đô thị hoá, dân số Đà Nẵng ngày càng tăng nhanh. Dân số thành phố từ mức 148.599 người vào năm 1964 tăng lên tới gần 500.000 người vào năm 1975.

Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, Đà Nẵng là đô thị lớn thứ hai miền Nam. Tính đến trước sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, cảng Đà Nẵng là nơi cung cấp hàng hóa cho cả vùng I chiến thuật, đồng thời là trung tâm tiếp tế cho gần 3 triệu dân miền Nam. Toàn thị xã khi đó có hàng chục công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. Người dân Đà Nẵng chủ yếu sống bằng nghề buôn bán.

Sau Hiệp định Genève, quần đảo Hoàng Sa được giao cho chính quyền Quốc gia Việt Nam quản lý. Ngày 13 tháng 7 năm 1961, Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Ngô Đình Diệm kí sắc lệnh 174-NV quy thuộc quần đảo này vào tỉnh Quảng Nam và thiết lập tại đó một đơn vị hành chính lấy tên là xã Định Hải thuộc quận Hòa Vang. Sau khi đã kiểm soát được nhóm đảo An Vĩnh từ trước, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa vào [ngày 19] tháng 1 năm 1974 khi quân đội của họ tấn công quân đồn trú Việt Nam Cộng hòa và chiếm nhóm đảo Lưỡi Liềm ở phía tây.

Từ 1975 đến nay

Một góc thành phố Đà Nẵng hiện nay

Sau khi hòa bình lập lại, Đà Nẵng là thành phố thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Ngày 5 tháng 5 năm 1990, Đà Nẵng được công nhận là đô thị loại 2. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã thông qua nghị quyết cho phép tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng tách thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trực thuộc trung ương. Về địa giới hành chính, thành phố Đà Nẵng mới bao gồm thành phố Đà Nẵng trước đây, huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa. Trên thực tế thì quần đảo Hoàng Sa đang nằm dưới sự kiểm soát củaTrung Quốc và Ủy ban Nhân dân huyện đảo Hoàng Sa trực thuộc Sở Nội vụ thành phố Đà Nẵng. Ngày 1 tháng 1 năm 1997, Đà Nẵng chính thức trở thành thành phố trực thuộc trung ương. Ngày 23 tháng 1 năm 1997, 5 quận Hải Châu, Liên Chiểu, Ngũ Hành Sơn, Sơn Trà, Thanh Khê được thành lập. Ngày 15 tháng 7 năm 2003, Đà Nẵng được công nhận là đô thị loại 1. Năm 2005, một phần huyện Hòa Vang được tách ra và thành lập nên quận mới là quận Cẩm Lệ.

Để chuẩn bị cho một cuộc bức phá của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, những năm qua, Đà Nẵng đã nỗ lực cải thiện hình ảnh và vị thế của mình. Từ năm 2001, thành phố đề ra kế hoạch thực hiện chương trình “Thành phố 5 không”: không hộ đói, không có người mù chữ, không có người lang thang xin ăn, không có người nghiện ma túy trong cộng đồng và không có cướp của, giết người. Sau kết quả ban đầu của chương trình "Thành phố 5 không", Đà Nẵng lại tiếp tục với chương trình "3 có" - có nhà ở, có việc làm và có nếp sống văn hóa, văn minh đô thị. Các chương trình này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, đã tạo thành mục tiêu để chính quyền thành phố phấn đầu và tạo được niềm tin đối với người dân. Sau khi trở thành thành phố trực thuộc trung ương, Đà Nẵng luôn đạt tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn bình quân chung của Việt Nam. GDP bình quân đầu người năm 2011 là 2.283 đô la Mỹ, trong khi trung bình cả nước là 1.300 đô la Mỹ.

Với tư cách kế thừa quyền sở hữu các quần đảo từ các chính quyền trước, Nhà nước CHXHCN Việt Nam đã liên tục đưa ra những tuyên bố khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa. Năm 1994, Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 và khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội Việt Nam tách huyện Hoàng Sa khỏi tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng và sáp nhập vào thành phố Đà Nẵng. Huyện Hoàng Sa được xác định có diện tích 305 km², với địa giới bao gồm một quần đảo có tên gọi là quần đảo Hoàng Sa nằm cách đất liền khoảng 170 hải lý (315 km). Cuối tháng 6 năm 2012, Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Biển Việt Nam. Điều 1 đã khẳng định lại tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này. Ngày 4 tháng 7 năm 2012, kỳ họp thứ 4 Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng khóa VIII nhiệm kỳ 2011-2016 đã thông qua Nghị quyết phản đối Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa.

 

Quy hoạch và kết cấu đô thị

Khách sạn Novotel Đà Nẵng cao 155m.

Đà Nẵng khi mới hình thành theo quy hoạch của người Pháp được chia thành hai khu vực rõ rệt. Khu người Pháp (quartier français) nằm ở trung tâm thành phố, chiều dọc từ đầu Quai Coubert (nay là đường Bạch Đằng) đến ngã ba Quai Coubert – Đồng Khánh (nay là Hùng Vương), chiều ngang đến đường Marc Pourpre (Lê Lợi). Khu bản xứ (quartier indigène) là nơi người Việt sinh sống gồm phần lớn diện tích còn lại của thành phố. Nếu như khu người Pháp có đại lộ tráng nhựa và đường dành cho đi dạo rợp bóng cây thì khu người bản xứ lại là một khu chen lẫn giữa nhà cửa lụp xụp và nhà khá giả, đường nhựa và đường rải đá, đường đất. Quai Courbet giữ vai trò là đường xương sống của Tourane thời Pháp thuộc, chạy từ bắc xuống nam dọc theo tả ngạn sông Hàn. Dọc theo đường này có nhiều công trình kiến trúc từ thời Pháp thuộc, cũng là điểm xuất phát để từ đó người Pháp mở rộng thành phố về hướng tây và hình thành những đường phố có khoảng cách gần như đều nhau. Tuy nhiên, Pháp chỉ chú ý đầu tư xây dựng bên tả ngạn.

Sau năm 1975, thành phố đã đầu tư cho quy hoạch đôi bờ sông Hàn với những công viên, đường đi dạo dọc hai bờ sông, nhiều cây cầu tiếp nhau nối liền hai bờ đông tây. Sông Hàn trở thành "chiếc ban công" thể hiện bộ mặt đô thị Đà Nẵng. Các dự án bất động sản hàng trăm triệu đô la Mỹ được đầu tư xây dựng hai bên sông Hàn, đặc biệt trong khu vực trung tâm với các công trình quy mô rất lớn tạo điểm nhấn cho thành phố. Khách sạn Novotel Sông Hàn cao 155m, hiện đang được xem là tòa nhà cao nhất miền Trung Việt Nam. Cầu Rồng với hệ thống phun nước, phun lửa được xem là con rồng thép lớn nhất thế giới. Không gian đô thị Đà nẵng cũng được quy hoạch theo hướng hướng ra sông, ra biển để tạo không gian tốt cho kinh tế phát triển. Thành phố đã phát triển nhanh các đô thị mới quy mô 500 - 1.000 ha, hình thành các khu công nghiệp thân thiện môi trường và triển khai nhiều dự án bất động sản.

Theo đồ án quy hoạch chung đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 thì về quy mô dân số, đồ án xác định đến năm 2030 dân số Đà Nẵng là 2,5 triệu người. Diện tích đất xây dựng đô thị sẽ phát triển tương ứng là 37.500 ha. Như vậy, so với hiện nay thì dân số và diện tích đất xây dựng đô thị sẽ tăng hơn 2,5 lần. Trong định hướng phát triển, thành phố Đà Nẵng sẽ mở rộng về các hướng tây bắc, nam và đông nam. Thành phố đặc biệt chú trọng đến việc quy hoạch trên nền tảng không gian xanh, thân thiện với môi trường. Cơ sở hạ tầng giao thông ngầm với các bãi đỗ xe ngầm và tàu điện ngầm cũng nằm trong mục tiêu quy hoạch của thành phố.

 

Hành chính

Đà Nẵng là một trong năm thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam, được xếp vào đô thị loại I, thỏa mãn các tiêu chí như tỷ lệ lao động phi nông nghiệp khu vực nội thành tối thiểu đạt 85% so với tổng số lao động, cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng đồng bộ và cơ bản hoàn chỉnh,...

Cũng như các tỉnh và thành phố khác của Việt Nam, Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng do người dân thành phố trực tiếp bầu lên và là cơ quan quyền lực nhà nước ở thành phố. Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng nhiệm kỳ 2011–2016 gồm 48 đại biểu; chủ tịch là ông Trần Thọ được bầu ngày 1 tháng 4 năm 2013 để thay cho ông Nguyễn Bá Thanh. Ủy ban nhân dân thành phố là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân và là cơ quan hành chính nhà nước ở thành phố, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của Chính phủ Việt Nam và các nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố. Đà Nẵng hiện có sáu quận, hai huyện bao gồm 45 phường và 11 xã. Ngoại trừ quận Cẩm Lệ, năm quận còn lại của thành phố đều giáp biển.

Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Đà Nẵng
Tên Diện tích, km² Dân số (2009)
Quận (6)
Hải Châu 21,35 189.561
Thanh Khê 9,36 174.557
Sơn Trà 59,32 127.682
Ngũ Hành Sơn 38,59 63.067
Tên Diện tích, km² Dân số(2009)
Liên Chiểu 79,13 128.353
Cẩm Lệ 33,76 87.691
Huyện (2)
Hòa Vang 736,91 116.527
Hoàng Sa 305,00 ---
Bản đồ Đà Nẵng.
Bản đồ Đà Nẵng.jpg

 

 

Kinh tế

Trung tâm Hội chợ và Triển lãm Đà Nẵng.

Sau ngày chiến tranh Việt Nam chấm dứt, cơ sở hạ tầng của Đà Nẵng còn lại gần như nguyên vẹn nhưng quy mô ngành công nghiệp vẫn nhỏ bé, đồng thời đất đai ven thành phố bị bỏ hoang. Trải qua kế hoạch năm năm 1976-1980, thành phố đạt được một số thành tựu như công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân 14,7%/năm, tổ chức khai hoang được 700 ha đất,... Tổng kết kế hoạch năm năm 1981-1985 kế tiếp, sản lượng công nghiệp thành phố trong năm 1985 tăng 47% so với năm 1982; số thu ngân sách năm 1985 gấp 5,3 lần so với năm 1983. Tuy vậy, giai đoạn 1986-1990 chứng kiến khó khăn chung của cả nền kinh tế, trong đó có kinh tế Đà Nẵng. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 1990 chỉ bằng 95,5% so với năm 1985; một số cơ sở phải dừng hoạt động hoặc giải thể; số lượng xí nghiệp quốc doanh sụt từ 64 còn 59. Từ sau năm 1991, kinh tế thành phố dần đi vào ổn định và tăng trưởng. Bình quân tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1991-1998 là 15,6%/năm, cao hơn trung bình của cả nước. Sau khi trở thành thành phố trực thuộc trung ương, GDP bình quân giai đoạn 1997-8/2000 tăng 9,66%/năm; tỉ lệ đói nghèo giảm từ 8,79% của năm 1997 xuống còn hơn 2% vào năm 2000. Năm 2003, Đà Nẵng chiếm 1,5% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của toàn Việt Nam, tăng so với mức 1,31% của năm 1996 (năm cuối cùng còn thuộc tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng). Cũng trong năm này, tổng sản phẩm nội địa (GDP) của thành phố đạt 4.822,3 tỉ đồng Việt Nam, tăng 1,86 lần so với năm 1997 (giá so sánh 1994).

Lực lượng lao động của thành phố năm 2005 là 386.487 người đến năm 2010 đã tăng lên 462.980 người, chiếm 49,14% dân số. Đây là nguồn cung đảm bảo cho nền kinh tế phát triển, nhất là chất lượng lao động ngày một tăng; tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 37% năm 2005 tăng lên 50% năm 2010, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề tăng từ 25,5% năm 2005 lên 37% năm 2010. GDP của thành phố Đà Nẵng năm 2010 đạt 10.400 tỉ đồng. Năm 2012, đạt 14.230 tỷ đồng, tăng 9,1% so với năm 2011. GDP bình quân đầu người năm 2011 ước đạt 2283 USD, gấp 2,2 lần so với năm 2005 và bằng 1,6 lần mức bình quân chung của Việt Nam. Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn năm 2012 ước đạt hơn 26 nghìn tỉ đồng. Sau 15 năm luôn vượt chỉ tiêu thu ngân sách thì vào năm 2012, Đà Nẵng hụt thu ngân sách hàng nghìn tỷ đồng. Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2012 là 6.905,7 tỉ đồng trong khi năm 2011 là 13.668,26 tỉ đồng.

Đà Nẵng có chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) đứng đầu Việt Nam liên tiếp trong ba năm 2008, 2009 và 2010, đồng thời đứng đầu về chỉ số hạ tầng và xếp thứ tư về môi trường đầu tư. Trong bảng xếp hạng PCI của Việt Nam năm 2012, Đà Nẵng xếp ở vị trí thứ 12 trên 63 tỉnh, thành. Năm 2011, Đà Nẵng có 36 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mới được cấp Giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 318,9 triệu đô la Mỹ. Năm 2012, con số này là 33 dự án với tổng số vốn đăng ký 124,09 triệu đô la Mỹ, giảm hơn 60% so với năm 2011.

Với vị thế là trung tâm kinh tế của khu vực miền Trung-Tây Nguyên, Đà Nẵng có ngành kinh tế khá đa dạng bao gồm cả công nghiệp, nông nghiệp cho tới dịch vụ, du lịch, thương mại. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành dịch vụ, công nghiệp và giảm tỷ trọng nông nghiệp. Tỷ trọng nhóm ngành dịch vụ trong GDP năm 2011 là 51%, công nghiệp - xây dựng là 46% và nông nghiệp là 3%.

Mặt tiền chợ Hàn.

Ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng bình quân 20%/năm. Thuỷ sản, dệt may, da giày, cao su,... là những lĩnh vực mũi nhọn được tập trung phát triển. Bên cạnh đó, thành phố còn chú tâm đến ngành Công nghệ thông tin (Công viên Phần mềm Đà Nẵng, Khu đô thị Công nghệ FPT Đà Nẵng, Khu Công nghệ cao), ngành công nghệ sinh học (Trung tâm Công nghệ sinh học Đà Nẵng). Đà Nẵng còn chủ trương ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp sạch phục vụ mục tiêu "Xây dựng Đà Nẵng – Thành phố môi trường". Năm 2008, chính quyền thành phố đã từ chối hai dự án FDI sản xuất thép và giấy với tổng vốn đăng ký lên đến 2,5 tỷ đô la Mỹ. Thành phố đề ra mục tiêu trở thành một trong những địa phương đi đầu trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá của Việt Nam, trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020.

Về thương mại, thành phố có 24 trung tâm thương mại và siêu thị. Tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng 21,1%/năm. Đà Nẵng hiện có hai chợ lớn nhất nằm ở trung tâm thành phố là chợ Hàn và chợ Cồn cùng những siêu thị lớn mới mở trong vòng vài năm trở lại đây như Bài Thơ Plaza, Metro, BigC, Co.opMart, Intimex, Viettronimex, Đệ Nhất Phan Khang,.... Đà Nẵng là trung tâm tài chính lớn nhất của khu vực miền Trung - Tây Nguyên, trên địa bàn thành phố hiện có đến 60 chi nhánh tổ chức tín dụng và 233 phòng giao dịch, điểm giao dịch, quỹ tiết kiệm với sự đa dạng về loại hình hoạt động: 55 ngân hàng thương mại, một ngân hàng chính sách xã hội, một công ty tài chính, một công ty cho thuê tài chính,... Mật độ tập trung cao các chi nhánh ngân hàng ở đường Nguyễn Văn Linh khiến con đường này được mệnh danh là "Phố Wall" của miền Trung.

 

Du lịch

Bãi biển Đà Nẵng với bãi cát mịn chạy dài
Cáp treo Bà Nà đạt 4 kỷ lục thế giới.

Đà Nẵng là một thành phố có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch. Phía bắc thành phố được bao bọc bởi núi cao với đèo Hải Vânđược mệnh danh là "Thiên hạ đệ nhất hùng quan". Phía tây là khu du lịch Bà Nà nằm ở độ cao trên 1000m với hệ thống cáp treo đạt bốn kỷ lục thế giới (dài nhất, độ chênh lớn nhất, tổng chiều dài cáp dài nhất và sợi cáp nặng nhất) cùng khu vui chơi giải trí trong nhà Fantasy Park lớn nhất Đông Nam Á. Phía đông bắc là bán đảo Sơn Trà với 400 ha rừng nguyên sinh gồm nhiều động thực vật phong phú. Phía đông nam là danh thắng Ngũ Hành Sơn. Trên địa bàn thành phố còn có một hệ thống các đình, chùa, miếu theo kiến trúc Á Đông, các nhà thờ theo kiến trúc phương Tây như Nhà thờ Con Gà,...các bảo tàng mà tiêu biểu nhất là Bảo tàng Nghệ thuật điêu khắc Chăm. Đây là bảo tàng trưng bày hiện vật Chăm quy mô nhất ở Việt Nam.

Đà Nẵng đã xây dựng các sự kiện du lịch lớn, trong đó Cuộc thi Trình diễn Pháo hoa Quốc tế được tổ chức liên tục từ năm 2008. Vào tháng 5 năm 2012, Đà Nẵng lần đầu triển khai Cuộc thi dù bay Quốc tế. Tháng 6 là sự kiện "Điểm hẹn mùa hè" thường niên, quy tụ những hoạt động giải trí biển. Ngoài ra thành phố còn được bao bọc bởi 3 di sản văn hóa thế giới: Huế, Hội An, Mỹ Sơn. Xa hơn một chút nữa là Vườn Quốc gia Bạch Mã, và di sản thiên nhiên thế giới Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng. Vì thế Đà Nẵng được xem là điểm trung chuyển quan trọng trên Con đường di sản miền Trung.

Ước tính tổng lượng khách đến tham quan, du lịch tại Đà Nẵng trong năm 2012 đạt hơn 2,6 triệu lượt, tăng 12% so với năm 2011 và đạt 103% kế hoạch đề ra. Trong đó khách quốc tế ước đạt 631.000 lượt, tăng 18%; khách nội địa ước đạt hơn 2 triệu lượt, tăng 10%; thu nhập xã hội từ hoạt động du lịch ước đạt 6.000 tỉ đồng, tăng 36% so với năm 2011 và đạt 119% kế hoạch. Tính đến tháng 5 năm 2009, Đà Nẵng có 145 khách sạn với khoảng 4.383 phòng lưu trú, trong đó khoảng trên 700 phòng lưu trú ven biển thuộc các khách sạn 2 đến 5 sao như Furama (198 phòng), Sandy Beach (123 phòng), Tourane (69 phòng), Công đoàn (125 phòng), cụm ba khách sạn Mỹ Khê (142 phòng),... Tính đến đầu năm 2013, Đà Nẵng có 60 dự án đầu tư vào lĩnh vực du lịch với tổng vốn 4.004 triệu đô la Mỹ. Trong đó có 13 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn 1.457 triệu đô la Mỹ và 47 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn 2.546 triệu đô la Mỹ.

 

Giao thông

Du thuyền 5 Legend Of The Seas cập Cảng Đà Nẵng
Cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng
Cầu Rồng bắc qua sông Hàn

Đà Nẵng nằm ở trung độ của Việt Nam, trên trục giao thông huyết mạch Bắc - Nam về cả đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không, là cửa ngõ giao thông quan trọng của cả miền Trung và Tây Nguyên. Thành phố còn là điểm cuối trên Hành lang kinh tế Đông - Tây đi qua các nước Myanma, Thái Lan, Lào và Việt Nam.

Với một vị trí đặc biệt thuận lợi về giao thông đường biển, Đà Nẵng là thương cảng lớn nhất miền Trung Việt Nam. Cảng Đà Nẵngcó độ sâu trung bình từ 15 – 20 m, có khả năng tiếp nhận các tàu lớn có trọng tải đến 28.000 tấn. Đến tháng 12 năm 2012, cảng đã đạt 4.092.373 tấn, tăng 15,14% so với cùng kỳ năm 2011. Trong tương lai, khi cảng Liên Chiểu với công suất 20 triệu tấn/năm được xây dựng xong thì hệ thống cảng Đà Nẵng được nối liền với cảng Kỳ Hà, cảng Dung Quất ở phía nam sẽ trở thành một cụm cảng liên hoàn lớn nhất Việt Nam, giữ vị trí quan trọng trên tuyến hàng hải Đông Nam Á và Đông Bắc Á.

Ga Đà Nẵng

Sân bay quốc tế Đà Nẵng là một trong ba sân bay quốc tế lớn nhất Việt Nam (sau Nội Bàivà Tân Sơn Nhất) và là cảng hàng không quan trọng nhất cho cả miền Trung và Tây Nguyên. Đường hàng không Đà Nẵng có thể nối trực tiếp với Singapore, Bangkok, Đài Bắc,Quảng Châu, Hồng Kông, Seoul, Tokyo,... Từ khi được đầu tư nâng cấp và xây mới nhà ga vào năm 2010, Sân bay quốc tế Đà Nẵng với 36 quầy thủ tục và các tiện nghi hiện đại khác đã đảm bảo phục vụ 4 triệu lượt khách/năm và từ 6-8 triệu lượt khách/năm từ năm 2015 trở đi, tiếp nhận 400.000 - 1.000.000 tấn hàng/năm. Tổng Công ty Cảng hàng không miền Trung đã có kế hoạch nghiên cứu mở rộng nhà ga để đạt mức 10 triệu hành khách/năm vào năm 2020. Hiện nay, bên cạnh các đường bay nội địa đến các thành phố lớn của Việt Nam, sân bay này mới chỉ có một số ít các đường bay quốc tế. Chính phủ Việt Nam hy vọng sẽ phục vụ các chuyến bay quốc tế nhiều hơn trong các năm tiếp theo.

Tuyến đường sắt huyết mạch Bắc - Nam chạy dọc thành phố với tổng chiều dài khoảng 30 km. Trên địa bàn thành phố hiện nay có năm nhà ga, trong đó Ga Đà Nẵng là một trong ba ga lớn nhất toàn quốc, hàng ngày tất cả các chuyến tàu ra Bắc vào Nam đều dừng tại đây với thời gian khá lâu để đảm bảo cho lượng khách lớn lên xuống tàu. Cơ sở hạ tầng tại ga được đầu tư hiện đại; môi trường an ninh và vệ sinh được đảm bảo. Ngoài các chuyến tàu Bắc - Nam, Ga Đà Nẵng còn có thêm những chuyến tàu địa phương đáp ứng lượng khách rất lớn giữa các tỉnh, thành Đà Nẵng - Hà Nội, Đà Nẵng - Huế, Đà Nẵng - Quảng Bình, Đà Nẵng - Vinh, Đà Nẵng - Quy Nhơn, Đà Nẵng - TP. Hồ Chí Minh.

Cửa hầm Hải Vân
Cầu Thuận Phước

Thành phố Đà Nẵng kết nối với các địa phương trong nước thông qua hai đường quốc lộ: Quốc lộ 1A, nối Đà Nẵng với các tỉnh ở hai đầu Bắc, Nam và Quốc lộ 14B nối Đà Nẵng với các tỉnh miền Nam Trung Bộ và Tây Nguyên của Việt Nam. Việc đưa vào sử dụnghầm đường bộ Hải Vân khiến cho thời gian lưu thông được rút ngắn và giảm tại nạn giao thông trên đèo Hải Vân.

Đà Nẵng cũng đã có những bước tiến trong giao thông nội thị. Hạ tầng giao thông nội ô được xây dựng khá hoàn chỉnh với mạng lưới giao thông tiếp nối với các đường vành đai của thành phố khiến cho Đà Nẵng là một trong ít đô thị ở Việt Nam ít khi phải đối mặt với tình trạng tắc đường. Nhiều con đường cũ đã được mở rộng và kéo dài. Đường Hoàng Sa - Võ Nguyên Giáp - Trường Sa chạy dọc bờ biển theo hướng nam nối Đà Nẵng với Hội An được mệnh danh là "con đường 5" của Đà Nẵng vì là nơi tập trung hàng loạt khu nghỉ dưỡng cao cấp 4 và 5 đạt tiêu chuẩn quốc tế.. Nhiều cây cầu đã và đang xây dựng bắc qua Sông Hàn như cầu Thuận Phước, cầu sông Hàn, cầu Nguyễn Văn Trỗi, cầu Trần Thị Lý, Cầu Rồng,...không chỉ tạo nên những cảnh quan đẹp phục vụ du khách tham quan thành phố mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc điều tiết giao thông.

 

Dân cư

Người Đàng Trong tại Đà Nẵng thời Tây Sơn - Tranh của họa sĩ người Anh William Alexander
Lịch sử phát triển
dân số
Năm   Dân số
1995   637.300
1996   649.300
1997   661.800
1998   674.400
1999   687.300
2000   706.100
2001   723.100
2002   739.700
2003   760.700
2004   784.800
2005   805.700
2006   825.900
2007   847.500
2008   868.800
2009   894.500
2010   926.800
2011   951.700
Nguồn:[163]

Theo kết quả điều tra ngày 1 tháng 4 năm 1999, thành phố Ðà Nẵng có 684.846 người. Trong đó, dân số trong độ tuổi lao động xã hội toàn thành phố là 413.460 người, chiếm 57,7% dân số. Tính đến năm 2011, dân số toàn thành phố Đà Nẵng đạt gần 951.700 người, mật độ dân số đạt 740 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 828.700 người, dân số sống tại nông thôn đạt 123.000 người. Tính đến năm 2009, 86,9% dân số Đà Nẵng sinh sống ở thành thị, tốc độ tăng trưởng dân số đô thị trung bình hàng năm là 3,5%. Dân số nam của thành phố đạt 469.400 người, trong khi đó nữ đạt 482.300 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 11,3 ‰.

Dân số Đà Nẵng tăng trưởng ở mức từ 2,5% và 3% trong hầu hết các năm từ năm 2005 tới 2011, cao hơn trung bình toàn quốc là 1% đến 1,2%. Cá biệt tỷ lệ tăng trưởng đã tăng lên 3,6% trong năm 2010 trước khi trở lại 2,68% trong năm 2011. Đây là tốc độ tăng trưởng nhanh thứ ba trong cả nước sau Bình Dương (4,41%) vàĐồng Nai (3,5%). Ước tính dân số Đà Nẵng đạt một triệu người vào năm 2014. Di cư là yếu tố chủ đạo trong tăng trưởng dân số của thành phố ít nhất là từ năm 2009. Tăng trưởng dân số tự nhiên của thành phố cao hơn một chút so với mức trung bình của cả nước. Tuổi thọ trung bình đạt 77,4 tuổi đối với nữ và 72,4 hoặc 74,8 tuổi đối với nam. Trong tổng điều tra dân số năm 2009, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh ở mức 9,9 trẻ sơ sinh tử vong trên 1.000 trẻ.

Trên địa bàn thành phố có trên 37 dân tộc và người nước ngoài cùng chung sống. Trong đó, nhiều nhất là dân tộc Kinh với 883.343 người, người Hoađông thứ hai với 1.684 người, dân tộc Cơ Tu có 950 người, cùng các dân tộc ít người khác như dân tộc Tày với 224 người, Ê Đê với 222 người, Mườngcó 183 người, Gia Rai có 154 người...ít nhât là các dân tộc Chơ Ro, Hà Nhì, Si La và Ơ Đu chỉ có 1 người.

Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, trên địa bàn toàn thành phố có chín tôn giáo khác nhau, chiếm 164.195 người. Trong đó, nhiều nhất là Phật giáo với 117.274 người, xếp thứ hai là Công giáo với 39.802 người, đạo Tin Lành có 3.730 người, Cao Đài có 3.249 người. Cùng các tôn giáo khác như Minh Sư Đạo với 53 người, Bahá'í với 34 người, Phật giáo Hòa Hảo với 25 người, Hồi giáo có 19 người, ít nhất là Bà La Môn chỉ với 9 người. Đà Nẵng là nơi có Hội thánh Tin lành đầu tiên ở Việt Nam được thành lập vào năm 1911 bởi các giáo sĩ Hội truyền giáo Phước Âm Liên Hiệp (CMA).

 

Y tế

Hệ thống y tế của thành phố ngày càng hiện đại, hoàn chỉnh và đồng bộ từ tuyến thành phố đến quận, huyện và xã, phường. Theo con số của Tổng cục Thống kê (Việt Nam) thì vào năm 2011, thành phố Đà Nẵng có 69 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc sở Y tế thành phố, trong đó có 12 bệnh viện, 1 Bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng và 56 trạm y tế. Số giường bệnh trực thuộc sở Y tế Đà Nẵng là 3.442 giường. Tính đến đầu năm 2010, Đà Nẵng có tỷ lệ 12,3 bác sỹ/10.000 dân, 45 giường/10.000 dân. Cũng theo thống kê năm 2011, Đà Nẵng có 746 bác sĩ, 342 y sĩ, 756 y tá và 275 nữ hộ sinh. Bệnh viện Đà Nẵng (quy mô 1.000 giường) được nâng lên là bệnh viện hạng 1 vào năm 2003. Năm 2012, Bệnh viện Phụ sản – Nhi được thành lập mới với quy mô 550 giường bệnh.

Đà Nẵng cũng có một hệ thống bệnh viện, phòng khám tư nhân đang dần phát triển: Bệnh viện Ung thư (quy mô 500 giường), Bệnh viện Trí Tâm, Bệnh viện Đa khoa Hoàn Mỹ,... Tháng 3 năm 2012, thành phố thành lập giải thưởng “Tỏa sáng blouse trắng” nhằm tuyên dương những cá nhân người tốt, việc tốt. Đến cuối năm 2012, Đà Nẵng đã hoàn thành mục tiêu Bảo hiểm y tế toàn dân, với 91,6% dân số tham gia Bảo hiểm y tế, đi trước 2 năm so với cả nước (2014). Với sự hình thành của trường Đại học Y Dược và trường Đại học Kỹ thuật Y tế trên địa bàn thành phố, Đà Nẵng đang hướng đến mục tiêu trở thành một trung tâm y tế lớn của khu vực miền Trung - Tây Nguyên và cả nước.

 

Giáo dục

Khuôn viên Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng

Đà Nẵng là một trong những trung tâm giáo dục và đào tạo lớn nhất của khu vực miền Trung - Tây Nguyên và cả nước. Hiện nay trên địa bàn thành phố có 15 trường đại học, học viện; 18 trường cao đẳng; 50 trường trung học chuyên nghiệp, trung tâm dạy nghề; 175 trường học ở cấp phổ trong đó có Trung học phổ thông có 19 trường, Trung học cơ sở có 54 trường, Tiểu học có 100 trường, hai trường Phổ thông cơ sở, bên cạnh đó còn có 136 trường mẫu giáo với 1.249 lớp học, 2.422 giáo viên và 37,8 nghìn học sinh. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp phổ thông năm học 2010-2011 là 96,7%. Chất lượng giáo dục có sự chênh lệch giữa khu vực trung tâm và ngoại ô đã khiến cho các trường trong trung tâm trở nên quá tải. Từ năm học 2013-2014, ủy ban nhân dân thành phố có văn bản quy định đến năm 2015-2016, các trường tiểu học phải có 100% học sinh học hai buổi/ngày, nếu có khả năng mới được tiếp nhận học sinh ngoại tuyến.

Năm 2011, Đà Nẵng có 59.755 sinh viên, trong đó sinh viên công lập là 55.528 chiếm 92.9%. Theo Đề án phát triển Đại học Đà Nẵng đến năm 2015 đã được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt thì sắp tới trên địa bàn thành phố sẽ có thêm một số trường đại học, viện nghiên cứu được thành lập như: Đại học Quốc tế, Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông, Đại học Y Dược (Nâng cấp từ khoa Y - Dược hiện nay), Đại học Mở, Viện Đào tạo Sau đại học,... Tổng diện tích của làng đại học Đà Nẵng sẽ là 300 ha nhưng đến nay mới có gần 50 ha được xây dựng tại khu vực dự án.

 

Truyền thông

Là một trong trung tâm truyền thông quan trọng của Việt Nam đặc biệt đối với khu vực miền Trung - Tây Nguyên, hiện Đà Nẵng có tám đơn vị báo chí thành phố, bốn cơ quan báo chí trung ương đóng trên địa bàn thành phố và 64 văn phòng đại diện báo chí trung ương và các tỉnh. Các cơ quan báo chí của thành phố bao gồm: Báo Đà NẵngĐài Phát thanh - Truyền hình Đà NẵngBáo Công an Đà Nẵng. Có 4 tạp chí là: Tạp chí điện tử Thông tin và Truyền thông (ICT Đà Nẵng), Tạp chí Khoa học và Phát triểnTạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà NẵngTạp chí Văn hóa và Du lịch và Tạp chí Non Nước. Cơ quan đại diện báo chí trung ương ở Đà Nẵng có: Trung tâm truyền hình Việt Nam tại Đà NẵngThông tấn xã Việt Nam tại Đà Nẵng và nhiều cơ quan báo, đài khác.

Trong những năm qua, hoạt động xuất bản của thành phố có nhiều biến động, thị trường xuất bản thu hẹp. Đà Nẵng nằm xa thị trường sách lớn của cả nước nên không có lợi thế cạnh tranh. Ước tính năm 2012, các nhà xuất bản phát hành khoảng 25,6 triệu cuốn sách và xuất bản phẩm; sản lượng in đạt 10 tỷ trang khổ 13x19 cm. Nhà xuất bản Đà Nẵng đã có những đóng góp quan trọng cho hoạt động xuất bản của cả nước. Năm 2008, nhà xuất bản bị đình chỉ hoạt động trong ba tháng nhưng phải đến sau gần sáu tháng, nhà xuất bản mới được hoạt động trở lại.

 

Các địa điểm văn hóa, giải trí

Nhà hát Trưng Vương
Bảo tàng nghệ thuật điêu khắc Chăm
Vườn hoa trên đường Trần Hưng Đạo

Trên địa bàn thành phố hiện nay có khá nhiều điểm vui chơi, văn hóa giải trí. Trên cơ sỏ một nhà hát cũ đã xuống cấp, Nhà hát Trưng Vương được xây mới và khánh thành năm 2006 với sức chứa hơn 1.200 chỗ ngồi. Đây là nơi thường xuyên tổ chức biểu diễn các loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống như tuồng, cải lương và nghệ thuật sân khấu hiện đại như: vũ kịch, múa ba lê, opera, nhạc giao hưởng,...các hội thảo, hội nghị và các sự kiện văn hóa lớn của thành phố.

Dành cho sân khấu tuồng ở thành phố có Nhà hát tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh tiền thân là Đoàn tuồng giải phóng Quảng Nam. Nhà hát mang tên nhà sáng tác, người nghệ sĩ và người thầy - Nguyễn Hiển Dĩnh, người có công lớn trong hoạt động nghệ thuật tuồng Việt Nam. Nhà hát vẫn duy trì lịch biểu diễn vào thứ 4 và thứ 7 hàng tuần. Năm 2001, thành phố đã đầu tư 6 tỷ đồng để nâng cấp nhà hát.

Cho đến năm 2013, Đà Nẵng có bốn bảo tàng bao gồm Bảo tàng Nghệ thuật điêu khắc Chăm Đà Nẵng, Bảo tàng Đà Nẵng, Bảo tàng Khu V và Bảo tàng Hồ Chí Minh (chi nhánh Quân khu V). Trong số đó, Bảo tàng Điêu khắc Chăm có tiền thân là Bảo tàng Chàm đượcTrường Viễn Đông Bác Cổ cho xây dựng từ 1915-1916 đến năm 1936 mới hoàn tất. Bộ sưu tập nguyên thủy là do nhà khảo cổ Henri Parmentier thu thập từ thế kỷ 19. Không gian của toà nhà bảo tàng gần 1.000 m² với 500 hiện vật được bố trí trưng bày trong các phòng chủ đề khác nhau. Hiện nay, Bảo tàng Lịch sử thành phố Đà Nẵng đang được xây dựng trong khu vực Thành Điện Hải với mặt bằng trưng bày hơn 2.000 m². Thành phố cũng dự kiến xây dựng bảo tàng Bảo tàng Mỹ thuật thành phố và Bảo tàng Hải dương học.

Về hệ thống thư viện năm 2012, thành phố có 3/8 quận, huyện và 13/56 xã có thư viện, 22 tủ sách tại các thôn, tổ dân phố,... Hầu hết các thư viện đều ở trong tình trạng chật hẹp, nghèo nàn về đầu sách và không thu hút được bạn đọc. Riêng Thư viện Khoa học Tổng hợp Đà Nẵng hiện có khoảng 180.000 bản sách/68.000 tên, trong đó đặc biệt có 3000 bản có giá trị cao nhưng đang trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng. Dự án xây dựng công trình Thư viện Khoa học tổng hợp với tổng vốn đầu tư hơn 280 tỉ đồng được phê duyệt vào năm 2010 nhưng vẫn chưa được khởi công.

Đà Nẵng không có nhiều rạp chiếu phim. Rạp chiếu phim MegaStar nằm trong tòa nhà Vinh Trung Plaza gồm 6 phòng chiếu và 854 ghế ngồi được khai trương từ ngày 3 tháng 7 năm 2008. Bên cạnh đó còn có Lotte Cinema Đà Nẵng nằm trên tầng 5 và 6 của khu trung tâm mua sắm Lotte Mart với bốn phòng chiếu riêng biệt. Với ưu thế về công nghệ, trang bị hiện đại, nên lượng khán giả đổ về hai rạp này ngày càng nhiều. Trong khi đó, rạp phim Lê Độ (rạp chiếu phim lâu đời nhất ở Đà Nẵng) và Cinema Fafilm rất vắng người vì không gian nhỏ, chất lượng âm thanh và hình ảnh kém. Các quán bar, vũ trường cũng là điểm đến của một bộ phận thanh niên Đà Nẵng. Lớn nhất Đà Nẵng là vũ trường New Phương Đông nằm ở quận Hải Châu.

Công viên 29/3 nằm trên đường Điện Biên Phủ với diện tích 20 ha chủ yếu là nơi những người dân đến tập thể dục và đi dạo.Năm 2010, khu công viên trên bãi biển Phạm Văn Đồng được Hội đồng nhân dân Thành phố ra nghị quyết đặt tên "Công viên Biển Đông". Đây còn được xem là "Công viên hòa bình" với đàn chim bồ câu hơn 1.000 con, là nơi nhiều đôi uyên ương chọn làm địa điểm chụp ảnh cưới và là địa điểm tổ chức lễ hội của thành phố. Hiện nay, thành phố đang chủ trương xây dựng một số công viên có quy mô lớn như công viên vui chơi giải trí quy mô 4.000 tỉ đồng dọc theo bờ tây sông Hàn hay công viên đại dương Sơn Trà được đầu tư 200 triệu đô la Mỹ.

 

Thể Thao

Sân vận động Chi Lăng

Với vai trò là trung tâm của khu vực miền Trung - Tây Nguyên, Đà Nẵng là nơi tập trung các trung tâm huấn luyện, đào tạo thể thaothành tích cao cùng các công trình thể thao quan trọng của khu vực và cả nước. Điển hình là Trung tâm Huấn luyện thể thao Quốc gia III, Trung tâm Thể thao Quốc phòng III và Đại học Thể dục Thể thao III. Ngoài ra còn có Làng vận động viên và Khu tập luyện bóng đá rộng gần 8 ha, hay Khu thể thao thành tích cao rộng 7 ha, nằm ở khu đô thị mới Tuyên Sơn - Hòa Cường.

Thành tích của các vận động viên Đà Nẵng đà liên tục được cải thiện qua kỳ thi đấu. Từ năm 2000 đến năm 2010, tại các giải quốc gia, các vận động viên của thành phố đạt được tổng cộng 3.596 huy chương, trong đó có 1.026 huy chương vàng, 1.158 huy chương bạc và 1.402 huy chương đồng. Cũng trong giai đoạn 2000-2010, tại các giải khu vực và quốc tế, vận động của thành phố đạt được tổng cộng 182 huy chương, trong đó có 90 vàng, 47 bạc và 45 đồng. Nếu như tại Đại hội thể dục thể thao lần thứ III năm 1995, Đoàn Đà Nẵng xếp ở vị trí 28/52 thì ở Đại hội lần thứ VI năm 2010, thành phố đã ở vị trí 4/66. Đà Nẵng có những vận động viên xuất sắc và hàng đầu ở một số môn như vận động viên karatedo Vũ Kim Anh và vận động viên bơi lội Hoàng Quý Phước.

Câu lạc bộ bóng đá Đà Nẵng có tiền thân là đội bóng đá Công nhân Quảng Nam-Đà Nẵng rồi đội bóng đá Quảng Nam-Đà Nẵng. Vào cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990, Quảng Nam-Đà Nẵng là một câu lạc bộ mạnh, đỉnh cao là khi vươn tới chức vô địch quốc gia năm 1992 cùng ba lần giành ngôi á quân vào các năm 1987, 1990 và 1991. Đến trước mùa giải 2008, câu lạc bộ bóng đá Đà Nẵng đổi tên thành SHB Đà Nẵng sau khi Sở thể dục thể thao Thành phố Đà Nẵng chuyển giao đội bóng cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội. SHB Đà Nẵng từng sở hữu sân vận động Chi Lăng với sức chứa 30.000 ngàn người và được xem là một trong những sân vận động lớn nhất Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay toàn bộ khu đất rộng 5,5 ha trong đó có sân vận động Chi Lăng đã được bán cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Tập đoàn Thiên Thanh.

Thể thao phong trào ở Đà Nẵng còn rất hạn chế. Số công trình thể thao phục vụ nhu cầu rèn luyện sức khỏe của người dân tại các quận nội thành chỉ đếm trên đầu ngón tay và chủ yếu tập trung tại các bãi biển.[212] Trong số sáu quận nội thành, mới chỉ có quận Sơn Trà được đầu tư xây dựng nhà tập luyện, quận Ngũ Hành Sơn có sân vận động còn những nơi khác vẫn chưa được đầu tư đầy đủ. Dù thành phố có các công trình thể thao đúng chuẩn như Cung thể thao Tiên Sơn, Câu lạc bộ Bơi lặn, Câu lạc bộ Đua thuyền Đồng Nghệ, Trung tâm Thể dục thể thao người cao tuổi, nhà tập luyện taekwondo nhưng có những công trình vẫn chưa được sử dụng hết công năng, gây lãng phí và thất thoát lớn.

 

Làng nghề

Một cơ sở chế tác đá mỹ nghệ ở làng nghề Non Nước

Trải qua những thử thách khốc liệt của thời gian, chiến tranh loạn lạc những làng nghề Đà Nẵng vẫn giữ cho mình nét hồn hậu, chân chất. Hết đời nọ đến đời kia, họ sống với nghề không chỉ bởi miếng cơm, tấm áo mà còn vì cái tâm của con người trên mảnh đất đã nuôi sống họ. Đà Nẵng có một số làng nghề truyền thống. Nổi tiếng nhất là làng đá mỹ nghệ Non Nước. Làng đá nằm dưới chân núi Ngũ Hành Sơn thuộc phường Hòa Hải - quận Ngũ Hành Sơn. Nghề chế tác đá ở đây được hình thành vào thế kỷ 18 do một nghệ nhân đến từ Thanh Hóa tên là Huỳnh Bá Quát sáng lập. Từ vật liệu là đá cẩm thạch, những nghệ nhân nơi đây chế tác các tác phẩm tượng Phật, tượng người, tượng thú, vòng đeo tay,... Tuy nhiên sự phát triển nhanh của làng nghề trong những năm gần đây đã dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước uống do các hộ đều dùng axít để tẩy rửa và tạo độ bóng cho đá. Bên cạnh đó, bụi đá và tiếng ồn cũng ảnh hưởng đến sức khỏe người dân.

Làng chiếu Cẩm Nê nằm cách trung tâm thành phố 14 km về phía tây nam thuộc xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang. Nơi đây từ lâu đã nổi tiếng với các loại chiếu hoa truyền thống. Nghề chiếu Cẩm Nê có nguồn gốc từ Hoằng Hóa, Thanh Hóa theo chân các cư dân người Việt đến cư trú ở vùng đất này vào thế kỷ 15. Chiếu hoa Cẩm Nê đã từng được hiện diện trong cung vua nhà Nguyễn; những nghệ nhân Cẩm Nê xưa cũng đã từng được các triều đại vua sắc phong, ban thưởng. Chiếu Cẩm Nê có ưu điểm là viền chiếu được gấp kỹ hơn, dày hơn, bền hơn, nằm êm lưng hơn so với chiếu của các địa phương khác. Mùa hè nằm chiếu thấy mát; mùa đông nằm ấm và tỏa hương đồng cỏ nội dịu nhẹ.

Gắn với nghề cá và truyền thống đi biển của ngư dân, ở Đà Nẵng còn có làng nghề nước mắm Nam Ô được hình thành vào đầu thế kỷ XX. Nam Ô là làng đánh cá nhỏ nằm ở cửa sông Cu Đê, nay thuộc phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu. Đặc trưng nhất của nước mắm Nam Ô là được chế biến từ cá cơm than, đánh bắt vào tháng ba âm lịch. Chum để muối cá phải bằng gỗ mít, dưới đáy chum phải chèn sạn, chổi đót và phải lọc nước mắm bằng chuộc mới đảm bảo nước mắm tinh chất, thơm đậm. Muối ướp cá phải là muối lấy từ Nha Trang (Khánh Hòa), Quảng Ngãi và Bình Thuận. Hạt muối phải trắng tinh, to, già, được nắng, không bị nước mưa, mang về đổ trên nền xi măng khô ráo bảy ngày cho chảy hết chất nước đắng, sau đó cho vào vại cất vài năm rồi mới đem ra làm. Một chum 200–300 kg cá, sau 12 tháng cho ra 100-150 lít nước mắm loại 1. Còn lại là nước mắm loại 2 và loại 3. Sau một thời gian bị mai một bởi nghề làm pháo thì vào năm 2006, Chính phủ Việt Nam đã hỗ trợ 12 tỉ đồng để phục hồi làng nghề.

 

Lễ hội

Các lễ hội truyền thống của Đà Nẵng đã có từ rất xưa và được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Lễ hội của ngư dân Đà Nẵng được gọi là lễ hội Cá Ông. "Ông" là tiếng gọi tôn kính của ngư dân dành riêng cho cá voi, loài cá thường giúp họ vượt qua tai nạn trên biển cả. Lễ tế cá ông thường được lồng ghép dưới hình thức lễ hội cầu ngư và lễ ra quân đánh bắt vụ cá nam. Tại Đà Nẵng, lễ hội được tổ chức trong hai ngày vào trung tuần tháng 3 âm lịch ở những vùng ven biển như Mân Thái, Thọ Quang, Thanh Lộc Đán, Xuân Hà, Hòa Hiệp,... Trong ngày lễ, bên cạnh việc cúng tế cầu mong một mùa đánh bắt bội thu, thuyền bè đi khơi về lộng an toàn, dân làng còn làm lễ rước trên biển. Trong phần hội, có các trò chơi dân gian đặc trưng của vùng biển như lắc thúng, đua thuyền, bơi lội, kéo co...Một hình thức múa hát đặc trưng diễn ra trong lễ hội là múa hát bả trạo diễn tả tinh thần đoàn kết giữa các thành viên trong một con thuyền, vượt qua sóng to gió cả, mang về một mùa bội thu cho ngư dân.

Màn trình diễn của đội Nga trong Lễ hội pháo hoa năm 2013

Lễ hội lớn nhất ở Đà Nẵng là lễ hội Quán Thế Âm được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1960. Sau một thời gian bị gián đoạn, lễ hội được khôi phục từ năm 1991, đến năm 2000 thì được công nhận là lễ hội cấp quốc gia và hiện là một trong 15 lễ hội lớn nhất cả nước. Lễ hội được tổ chức vào các ngày từ 17 - 19 tháng 2 âm lịch hàng năm diễn ra tại Chùa Quán Thế Âm, nằm trong quần thể danh thắng Ngũ Hành Sơn. Trong phần lễ, đặc sắc nhất là lễ rước tượng Quán Thế Âm. Ngoài ra còn có hội hoa đăng, hội đua thuyền truyền thống, biểu diễn võ thuật, chơi hô hát Bài Chòi...Mặc dù Ủy ban nhân dân thành phố đã có nhiều biện pháp chấn chỉnh nhưng trong lễ hội vẫn còn tình trạng người lang thang ăn xin, người mù bán hương xin ăn trá hình hay tình trạng trông giữ xe với giá quá cao.

Ngoài ra ở Đà Nẵng còn có một loạt các lễ hội gắn liền với các đình làng như: lễ hội đình làng Hòa Mỹ (quận Liên Chiểu), đình làng An Hải (huyện Hòa Vang), đình làng Túy Loan (huyện Hòa Vang),... Các lễ hội này đều nhằm thể hiện đạo lý "uống nước nhớ nguồn", cầu cho quốc thái dân an, nhân dân trong làng được hanh thông an lạc. Những năm gần đây, Đà Nẵng đã tạo cho mình những lễ hội mới như lễ hội đua thuyền được tổ chức vào ngày quốc khánh 2 tháng 9 hàng năm trên dòng sông Hàn. Lễ hội pháo hoa quốc tế được tổ chức vào dịp lễ 30 tháng 4 đã thu hút hàng nghìn người đến Đà Nẵng. Lễ hội pháo hoa năm 2013 đã có tới gần 400.000 lượt người đến thành phố.

 

Ẩm thực

Mỳ Quảng Đà Nẵng

Ẩm thực Đà Nẵng chịu ảnh hưởng của ẩm thực vùng ven biển miền Trung Việt Nam, đặc biệt là vùng đất xứ Quảng nhưng vẫn có những nét đặc trưng riêng. Gỏi cá Nam Ô gắn liền với tên làng biển Nam Ô. Cá để chế biến là cá mòi, cá tớp, cá cơm,...nhưng ngon nhất là cá trích. Trước khi ướp, cá được ép lấy nước để làm ráo cá và lấy nước cốt này làm món nước chấm. Rau ăn kèm với gỏi cá Nam Ô rất đa dạng và chỉ mọc trên đèo Hải Vân như cóc rừng, tim lan, lành ngạnh, lá trâm, lá dừng,... đã mang lại hương vị riêng cho món gỏi cá sống.

Cẩm Lệ thuộc phường Khuê Trung, quận Hải Châu có món bánh khô mè nổi tiếng trong đó người đi "tiên phong" là bà Huỳnh Thị Điểu, thường gọi là bà Liễu. Bánh khô mè được làm từ bột gạo, bột nếp, đường kính, gừng, và mè. Bột gạo pha với bột nếp được cho vào khuôn, hấp cách thủy, nướng khô, "tắm" đường, "tắm" mè,...Ruột bánh xốp giòn, đường dẻo, mè chín thơm, thường được người dân dâng cúng ông bà tổ tiên trong những ngày giỗ tết. Hiện nay bánh được sản xuất, tiêu thụ quanh năm cả trong và ngoài nước. Bên cạnh đó còn có bánh tráng Túy Loan. Theo phong tục của người dân Túy Loan cứ mỗi dịp lễ tết nhất là những ngày giỗ kỵ bánh tráng là món ăn không thể thiếu trên mâm cúng gia tiên.

Ngoài ra ở Đà Nẵng còn có nhiều món ăn ngon tuy không gắn liền với tên một địa danh cụ thể nhưng vẫn mang những nét đặc trưng riêng như món mì Quảng Đà Nẵng, bánh xèo Đà Nẵng, bánh tráng cuốn thịt heo, bún thịt nướng, thịt bê thui, bún chả cá, bún mắm, mít trộn, ốc hút, bò né, nem lụi,...

Trắc nghiệm
Thông tin
Hoàn tất

Vui lòng cung cấp thông tin chính xác để chúng tôi tiện liên hệ và trao giải thưởng.

Quý khách cần hỗ trợ? Vui lòng gọi: (08) 3989 7562

;